[vc_row][vc_column][vc_column_text]
(Bài viết này là tóm tắt của một bài giảng do Tiến Sĩ Toshio Hayashi trình bày tại Nikko Kinugawa, Tochigi, tỉnh Tochigi vào ngày 30 tháng 7, 2000.)
http://www.shuzan.jp/english/brain/brain.html
Phát triển của bán cầu não phải theo phương pháp bàn tính tính ABACUS
Bộ não con người gồm bán cầu não phải và bán cầu não trái. Hình dạng của hai vùng này là tương tự nhau, nhưng sự khác biệt đã được dần dần tìm thấy trong các chức năng của chúng.
Bán cầu não trái điều khiển đọc và viết, tính toán, và tư duy logic.
Bán cầu não phải điều khiển cảm giác ba chiều, sáng tạo, và các giác quan nghệ thuật.
Hai bán cầu não này kết hợp với nhau cho phép chúng ta hoạt động như con người.
Người Nhật được cho là nói tiếng Nhật với não trái của họ, và điều này cho phép não trái của họ để có hiệu quả hơn. Mặt khác, người phương Tây cũng sử dụng não phải của họ để học ngôn ngữ của họ, vì vậy não phải của họ thường hiệu quả hơn.
Điều tự nhiên là sinh viên Nhật tính toán toán học tốt hơn là sinh viên cùng độ tuổi ở các nước phương Tây. Ngược lại, do bán cầu não phải phát triển tốt hơn, sinh viên ở các nước phương Tây sáng tạo hơn và độc đáo hơn so với sinh viên Nhật Bản.
Trong những năm gần đây, một số tranh luận về sự cần thiết của việc xúc tiến liên doanh ở Nhật Bản được đưa ra, nhưng để có môi trường như vậy chúng ta cần phải phát triển một hệ thống giáo dục mà ưu tiên tập trung đào tạo não phải của học sinh đầu tiên. Ngoài ra, người ta đã thấy rằng nếu một người được huấn luyện não phải sẽ ít có khả năng gặp phải chứng mất trí.
Ở đây, tôi xin giới thiệu phương pháp bàn tính Abacus. Trong phương pháp bàn tính Abacus, người học thao tác với hạt bàn tính trong đầu của họ để thực hiện các phép tính. Điều này đã dẫn chúng tôi đến suy đoán rằng hoạt động này có hiệu quả trong đào tạo não phải.
Nhờ sự phát triển của việc nghiên cứu não bộ và máy có thể đo chính xác lượng máu lưu thông trong não, các nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng phương pháp bàn tính Abacus cực kỳ hiệu quả trong việc kích hoạt não phải.
[/vc_column_text][/vc_column][/vc_row][vc_row full_width=”” parallax=”” parallax_image=”” u_row_style=”0″ u_row_paralax=”0″ u_row_scheme=”0″][vc_column width=”1/1″][vc_single_image image=”122″ alignment=”center” border_color=”grey” img_link_large=”” img_link_target=”_self” img_size=”full”][/vc_column][/vc_row][vc_row full_width=”” parallax=”” parallax_image=”” u_row_style=”0″ u_row_paralax=”0″ u_row_scheme=”0″][vc_column width=”1/1″][vc_column_text]
Tóm tắt lịch sử cá nhân
18.03.1939: Sinh ra ở Otsu, tỉnh Shiga
03.1962: Tốt nghiệp Bộ Khoa học ứng dụng, Đại học Kỹ thuật, Đại học Osaka Prefecture
03.1967: Hoàn thành chương trình thạc sĩ, tốt nghiệp trường Kỹ thuật, Đại học Kyoto
03.1973: Giành được một Bằng Tiến sĩ về Kỹ thuật, Đại học Kyoto
07.1981: Trợ lý Giáo sư, Đại học Kyoto (Trung tâm nghiên cứu y tế Polymer)
04.1994: Giáo sư, Viện nghiên cứu Đại học Osaka Prefecture
04.1995: Giáo sư, Viện nghiên cứu khoa học và công nghệ tiên tiến, Đại học Osaka Prefecture
04.1996 – nay: Ủy viên, Đại học Osaka Prefecture
02.2000 – nay: Giám đốc, Viện Nghiên cứu Khoa học và Công nghệ tiên tiến
Nghiên cứu:
02. 1975 – 09.1976, Nghiên cứu về Vật liệu y tế tại Đại học Case Western Reserve, Ohio, Hoa Kỳ.
Giải thưởng:
1987 Japan Fiber Conference Award (Nghiên cứu về Sợi quang trong Y khoa)
1999 Japanese Society for Biomaterials Award (Khái niệm cơ bản và ứng dụng của vật liệu sinh học)
[/vc_column_text][/vc_column][/vc_row]